Bối cảnh và thiết kế Thiết_kế_thiết_giáp_hạm_A-150

Vào những năm 1930, chính phủ Nhật bắt đầu ngả theo đường lối chủ nghĩa dân tộc cực đoan quân phiệt. Nhiều thành viên chính phủ mơ tưởng một đế quốc trải dài từ quần đảo Nhật Bản đến các thuộc địa giàu tài nguyên của phương Tây ở Đông Nam Á và Các quần đảo phòng tuyến ở trung Thái Bình Dương (Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á). Kích thước của lãnh thổ này cộng với việc va chạm với Hoa Kỳ do bành trướng lãnh thổ đẩy nước Nhật phải đóng và duy trì một hạm đội để nắm giữ các lãnh thổ mới này.[2][3] Nước Mỹ là một đối thủ đau đầu với Nhật vì họ có tiềm lực kinh tế lớn gấp mấy Nhật[4] với nhiều nghị sĩ Mỹ trong Quốc hội Hoa Kỳ nói rằng họ sẵn sàng "đóng gấp ba lần số tàu của Nhật trong bất kỳ cuộc đua vũ trang hàng hải nào".[5]

Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay từ năm 1896 đã nhận ra họ không thể sản xuất bằng bất kỳ đối thủ tiềm năng nào nên tàu của họ cũng phải mạnh hơn tàu tương đương của đối phương. Họ đã tương đối thành công trong cuộc đua về chất lượng trong suốt 40 năm với lớp thiết giáp tuần dương Kongou trước Thế chiến thứ nhất, lớp thiết giáp hạm Nagato ngay sau Thế chiến thứ nhất và lớp Yamato vào cuối thập niên 1930.[6] Dự án A-150 đi theo mô hình này với thiết kế thiết giáp hạm mà vượt trội hơn thiết kế tiềm năng của đối phương mà trong trường hợp này là Đế quốc AnhHoa Kỳ.[1]

Những bản thảo đầu tiên của thiết kế A-150 yêu cầu tám hoặc chín pháo 51 cm trong tháp hai hoặc ba súng. Hải quân Nhật chọn pháo 51 cm sau khi sản xuất thành công pháo 46 cm cho lớp Yamato. Thiết kế được kì vọng sẽ đạt được vận tốc tối đa 30 hải lý trên giờ (56 km/h; 35 mph) để cho phép tàu khả năng chạy vượt xa vận tốc 27 hải lý trên giờ (50 km/h; 31 mph) của thiết giáp hạm lớp North Carolina của Mỹ. Tuy nhiên, các yêu cầu thiết kế này bị giới hạn lại sau khi các cuộc thử nghiệm cho thấy để đóng một con tàu với thông số đó sẽ dẫn đến một con tàu với trọng tải choán nước tối thiểu là 91 000 tấn. Hải quân Nhật cho một tàu cỡ đó là "quá lớn và quá tốn kém".[1]

Dự án thiết kế chính thức được bắt đầu mở ra và giai đoạn giữa 1938-1939. Thiết kế mới này tập chung tạo ra một con tàu gần giống lớp Yamato nhưng được trang bị sáu khẩu 51 cm.[7] Việc tăng kích thước súng là do họ lường trước khả năng người Mỹ sẽ tìm ra kích thước thật của súng Mẫu 94 của Yamato nên chọn cỡ nòng 51 cm để đón đầu khẩu súng mà Mỹ sẽ dùng để đối đầu lại khẩu Mẫu 94 của Nhật.[1]

Bản thiết kế của Dự án A-150 cùng với nhiều tài liệu mật khác của Đế quốc Nhật bị thiêu hủy bởi nội bộ Nhật và các cuộc ném bom phóng hỏa của không quân Đồng Minh vào giai đoạn cuối cuộc chiến.[7]